PHỤ LỤC 1:
Tài liệu
Lê Quang Vinh
Để sưu tầm
tài liệu về Phật Giáo Hòa Hảo, Chương trình Nghiên cứu Lịch sử và Giáo lý Phật
Giáo Hòa Hảo có được tiếp xúc với ông Lâm Lễ Trinh, tại tư gia, vùng
California.
Ông Lâm Lễ
Trinh là một nhân viên Hội Đồng Nội Các chánh phủ Ngô Đình Diệm. Trước đó, ông
là Biện lý tòa án Saigon, và kế tiếp và Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Ông ra khỏi nội vụ
này năm 1959, khi đụng chạm đến quyền lợi của Cần Lao qua dịch vụ xổ số Kiến
Thiết.
Sau đó ông được bổ nhậm đi làm đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại vùng Trung
Đông, cho đến ngày 1-11-63, chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Dưới thời Đệ nhị Cộng
hòa, ông hành nghề luật sư, không tham gia công quyền. Sau 30-4-75, ông sang tị
nạn tại Hoa Kỳ, làm việc ngành giáo dục.
Với tư
cách Biện lý, đại diện Công tố viện, thụ lý vụ án Lê Quang Vinh, ông Lâm Lễ
Trinh đã tiết lộ một số dữ kiện liên hệ đến vụ án này, một vụ án đã làm sôi nổi
dư luận Miền Nam lúc đó, và vẫn còn là một đề tài thảo luận về sau này.
Tài liệu
sau đây trình bày diễn tiến vụ án từ khi ông Lâm Lễ Trinh được giao phó nhiệm vụ
lập hồ sơ đưa Tướng Lê Quang Vinh ra tòa. Những điều trình bày sau đây, hoặc dưới
hình thức tường thuật bởi người viết này, hoặc dưới hình thức lập y nguyên văn
lời nói của ông Lâm Lễ Trinh. (*)
Năm 1956,
không nhớ rõ ngày tháng, ông Biện lý Lâm Lễ Trinh được ông Bộ trưởng Tư pháp
Nguyễn Văn Sĩ báo tin bằng điện thoại, rằng ông Nguyễn Hữu Châu Bộ trưởng Phủ Tổng
thống kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ muốn gặp ông Biện lý, tại văn phòng dinh Tổng thống,
có việc cần kíp. Khi ông Trinh đến nơi, Bộ trưởng Nguyễn Hữu Châu cho ông biết
rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm muốn gặp ông Trinh, rồi đưa ông Trinh thẳng vào
phòng ngủ của ông Diệm. (*)
Qua câu
chuyện, Tổng thống Ngô Đình Diệm ngỏ ý cho biết muốn giao cho Biện lý Lâm Lễ
Trinh phụ trách “một vụ án rất hệ trọng”, vụ án Lê Quang Vinh tự Ba Cụt. Ngay
sau đó Tổng thống chỉ thị cho lấy một phi cơ trực thăng đưa Biện lý Lâm Lễ
Trinh xuống Cần Thơ, để gặp Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và Thiếu tướng Dương
Văn Minh, hai người đặc trách điều khiển chiến dịch Đinh Tiên Hoàng ở miền Tây,
“để bàn xem phải lập hồ sơ ra sao” (nguyên văn).
Theo lời
Tướng Dương Văn Minh thì sau khi “bị bắt trong một cuộc tảo thanh” tại Chắc Cà
Đao (Long Xuyên), Ba Cụt hiện bị giam giữ tại khám đường Cần Thơ. Ông Nguyễn Ngọc
Thơ cho biết rằng cần phải lập một hồ sơ tư pháp để có dữ kiện đưa Lê Quang
Vinh tự Ba Cụt ra tòa.
Ngay sau
đó, Biện lý Lâm Lễ Trinh dùng xe hơi đến Long Xuyên và Châu Đốc tiếp xúc với
các vị Chánh án Tòa Hòa Giải Rộng Quyền Dương Thiệu Sính (Long Xuyên) và Đoàn
Bá Lộc (Châu Đốc). Theo tổ chức tư pháp lúc đó, các vị này hành xử đồng thời
quyền hạn của chánh án, dự thẩm và biện lý. Ông Trinh ngỏ lời yêu cầu hai vị
này lập hồ sơ tội trạng của Lê Quang Vinh.
Hai vị
này cho biết rằng có một số đơn khiếu nại về các hành động “bất hợp pháp” của
Lê Quang Vinh. Trong thời gian ở miền Tây, Biện lý Lâm Lễ Trinh có đến khám đường
Cần Thơ gặp Tướng Lê Quang Vinh. Và sau đây là nguyên văn lời tường thuật của
ông:
— Tướng
Lê Quang Vinh ở tại một phòng riêng. Tôi đã nghe đồn về Tướng Ba Cụt như là một
người đánh giặc rất giỏi, cho nên tôi nghĩ ông này có tác phong quân sự nhiều
hơn. Tôi bước vào phòng, thấy một con người khác hẳn. Lê Quang Vinh bắt tay
tôi, tôi thấy ông là người mảnh khảnh cao ráo, mặt mày rất sáng sủa, mắt sáng,
trán cao, tiếng nói rổn rảng, trên mình mặc một bộ đồ bà ba đen. Sau cuộc gặp gỡ,
Lê Quang Vinh nói với tôi rằng: “Tôi không có tội, tôi chỉ là người chống Cộng”.
Ông cho biết là không cần gì về vật chất, chỉ mong vụ án này đem ra xử cho lẹ...
Vài ngày
sau, Biện lý Lâm Lễ Trinh được Bộ trưởng Nguyễn Hữu Châu điện thoại mời về
Saigon để phúc trình diễn tiến thủ tục với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong lần
tiếp xúc này, Biện lý Lâm Lễ Trinh có đặt câu hỏi Tổng thống Diệm về khía cạnh
chính trị của vụ án, thì được Tổng thống cho biết rằng: “Đây là một vụ án rất hệ
trọng về cả tư pháp lẫn chính trị, vì Lê Quang Vinh là một nhân vật quan trọng
của Hòa Hảo.”
Tổng thống
Diệm nó với ông Trinh rằng:
— Ông phải
cho tôi biết tội trạng gì, và nếu có tội trạng thì phải đem xử gấp.
Tổng thống
trực tiếp chỉ thị cho Biện lý Lâm Lễ Trinh xúc tiến gấp thủ tục, hoàn tất hồ sơ
gấp, đưa ra tòa án xử gấp, và nói rõ là xử tại tòa án Cần Thơ, trong một phiên
tòa đặc biệt.
Biện lý
Lâm Lễ Trinh có đặt vấn đề rằng theo luật pháp hiện hành, bị cáo có quyền có luật
sư biện hộ, thì Tổng thống cho hay không có gì trở ngại, gia đình bị cáo có quyền
mướn bất cứ luật sư nào để biện hộ trước tòa.
Hai luật
sư nổi tiếng là Vương Quang Nhường và Lê Ngọc Chấn nhận biện hộ cho Tướng Lê
Quang Vinh. Luật sư Nhường lúc ấy là thủ lãnh Luật sư đoàn, trước đã có lần
tham chánh Tổng trưởng Tư pháp của nội các Trần văn Hữu. Luật sư Lê Ngọc Chấn gốc
lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã làm Bộ trưởng Quốc phòng của chánh phủ Ngô
Đình Diệm đầu tiên (7-1954).
Biện lý
Lâm Lễ Trinh hoàn tất hồ sơ rất mau, tội trạng của bị cáo được ghi trong hồ sơ
đều là tội đại hình. Đây là do những đơn tố cáo của dân chúng địa phương, có
trong hồ sơ. Hai ông Dự thẩm Long Xuyên và Châu Đốc đã chuyển hồ sơ thẩm vấn về
tòa án Cần Thơ, để xử tại đây. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Văn Sĩ quyết định rằng
phiên tòa sẽ xử công khai, có đặt thêm ống loa phóng thanh cho công chúng nghe.
Đây là một
phiên tòa kéo dài. Chánh án là ông Huỳnh Hiệp Thành, Biện lý buộc tội là ông
Lâm Lễ Trinh, có nhiều phóng viên báo chí từ Saigon xuống lấy tin, và có mặt cả
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và Tướng Dương Văn Minh trên hàng ghế khán giả.
Rất đông tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đến xem tòa xử.
Sau khi
nghe công tố viện buộc tội, luật sư của bị cáo đứng lên biện hộ. Luật sư Vương
Quang Nhường biện hộ về khía cạnh pháp lý, còn luật sư Lê Ngọc Chấn biện hộ về
khía cạnh chính trị. Các luật sư cho rằng thân chủ mình vô tội, không phải
chính Lê quang Vinh đích thân phạm các tội trạng mà công tố viện nêu ra, nếu quả
thật có sự kiện đã xảy ra như lời cáo buộc, thì Lê Quang Vinh không thể bị kết
tội bởi hành động của những người khác.
Các luật
sư biện hộ rất tận tình. Luật sư Lê Ngọc Chấn nhấn mạnh về tính chất chính trị
của vụ án, vì Tướng Lê Quang Vinh là một chiến sĩ và lãnh tụ chống Cộng sản, chống
Pháp, kháng chiến rất nhiệt thành, ông không có trách nhiệm trực tiếp; nếu binh
sĩ có lỗi lầm, thì ông chỉ phải chịu trách nhiệm tinh thần mà thôi...
Ông Lâm Lễ
Trinh nhận xét như sau về sự biện hộ:
— Trước
tòa Lê quang Vinh đứng ngay thẳng, không tỏ vẻ khúm núm sợ hãi chi cả, vẫn giữ
tác phong người chỉ huy. Hai luật sư đặt câu hỏi, nhưng Lê Quang Vinh là người
biện hộ nhiều nhứt hay nhứt, làm cho công chúng chú ý nhiều nhứt. Ông ăn nói rất
hùng biện, có đầu có đuôi mạch lạc rõ ràng, tiếng nói rổn rảng. Người tranh luận
đối đáp với tòa án và với biện lý, chính là Lê Quang Vinh. Ông là người thật có
tài ăn nói...
Sau đó đến
phần nghị án. Thời gian nghị án khá lâu, giữa chánh án và các bồi thẩm dân sự.
Quyết định là bản án tử hình.
Ông Chánh
án Huỳnh Hiệp Thành từ phòng nghị án bước ra đọc bản án trước tòa, và tuyên bố:
— Tòa
tuyên án tử hình Lê Quang Vinh tự Ba Cụt.
Rồi ông
báo cho Lê Quang Vinh rằng:
— Phạm
nhân có quyền kháng cáo lên tòa trên.
Lê Quang
Vinh bữa đó mặc bộ quần áo bà ba trắng, tóc xỏa ngang vai, bình tĩnh nghe tòa
tuyên án tử hình, không tỏ vẻ sợ hãi. Lời nói sau cùng của ông trước tòa án là:
— Tôi là
một chiến sĩ chống Cộng, và tôi không có phạm các tội do Tòa đã gắn cho tôi.
Tôi vô tội.
Và cảnh
sát đến dẫn ông về khám đường.
Khán giả
tại Tòa cũng như quần chúng bên ngoài, sau khi nghe tòa tuyên án tử hình, không
có phản ứng giống nhau. Một phần, có lẽ là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, cho rằng
Lê Quang Vinh là chiến sĩ chống cộng, không có tội. Phần khác, dư luận các giới
bên ngoài cho rằng Lê quang Vinh là một người khét tiếng làm cho họ phải sợ. Dư
luận rất phức tạp, nhưng không ai chối cải rằng Lê Quang Vinh là một chiến sĩ
chống Cộng sản.
Được hỏi
về ý nghĩ của mình hiện nay về vụ án Lê Quang Vinh, ông Lâm Lễ Trinh trả lời rằng:
— Lui thời
gian lại, bây giờ tôi nghĩ rằng:
1. Tội trạng
gắn cho Lê Quang Vinh căn cứ trên lời các tiên cáo khai trong hồ sơ, ông phải
gánh vác trách nhiệm gián tiếp về mặt tinh thần, với tư cách người chỉ huy, như
Tổng thống Nixon phải gánh vác trách nhiệm về vụ Watergate. Còn chính Lê Quang
Vinh có đích thân phạm tội hay không, điều đó rất phức tạp, phải để lịch sử
phán xét, phải xét các tiên cáo có thành thật không, và những lời khai của họ
có đúng sự thật hay là vu khống.
2. Phải
nhìn nhận trong thời kỳ tranh tối tranh sáng đó, Lê Quang Vinh cai trị những
vùng tự trị, lại có sự xâm chiếm lẫn lộn của Cộng sản, thì các vụ giết người,
xâm phạm tài sản thường dễ xảy ra, rất phức tạp khó biết rõ xảy ra thế nào, do
ai gây ra, nhưng đứng ở cương vị chính quyền lúc đó, thì chính quyền nói rằng
những tội trạng đã xảy ra trong vùng Lê Quang Vinh kiểm soát, thì ông phải chịu
hết trách nhiệm.
3. Tôi
nhìn nhận rằng chủ trương của Tổng thống Ngô Đình Diệm là thanh toán lực lượng
các giáo phái, do đó vụ án này nhứt định phải có khía cạnh chính trị.
Tòa Thượng
thẩm Đại hình đã bác bỏ đơn kháng cáo, xác nhận bản án của Tòa Sơ thẩm Cần Thơ.
Chỉ còn giải pháp sau cùng là sự ân xá của Tổng thống. Theo hiến pháp Việt Nam
Đệ nhứt Cộng hòa, quyền ân xá tử tội là quyền của Tổng thống, người duy nhứt tối
thượng có thẩm quyền đó. Luật sư của Tướng Lê Quang Vinh có làm đơn xin ân xá,
nhưng Tổng thống đã bác bỏ, cho nên Lê quang Vinh bị đem xử tử.
— Tôi
cũng không hiểu lý do tại sao Tổng thống đã bác bỏ ân xá.
Đó là lời
nhận xét của ông Lâm Lễ Trinh.
Trước
ngày xử hình, Biện lý Lâm Lễ Trinh được Bộ trưởng Tư pháp yêu cầu xuống Cần Thơ
hiện diện tại pháp trường Cần Thơ trong lúc xử tử hình Tướng Lê Quang Vinh.
Nhưng ông Trinh đã từ chối, vì lý do không muốn mục kích thảm cảnh đó. Ông
Chánh án Huỳnh hiệp Thành được chỉ định thay thế để đi dự kiến tại pháp trường.
Trước
ngày xử hình, Biện lý Lâm Lễ Trinh có trở lại khám đường Cần Thơ thăm tử tội Lê
Quang Vinh lần cuối cùng. Sau đây là lời tường thuật của ông Trinh:
— Khi tôi
bước chân vào phòng, tôi thấy Lê Quang Vinh đang ngồi tại bàn viết, mặc quần áo
bà ba đen, đầu đội khăn rằn ri, nét mặt bình tĩnh không lo vẻ sợ sệt. Tôi cảm động
nhứt khi thấy trên vách tường Lê Quang Vinh có tự vẽ một bản đồ Việt Nam thống
nhứt từ Nam ra Bắc, phía dưới viết hàng chữ “VIỆT NAM MUÔN NĂM”... Tôi có nói với
ông rằng tôi rất buồn vì đơn xin ân xá bị Tổng thống bác bỏ, và hỏi ông lần cuối
cùng có muốn gì tôi sẽ hết sức giúp đỡ. Lê Quang Vinh chỉ nhờ tôi chuyển một lá
thơ về cho gia đình. Khi bắt tay tôi lần cuối cùng, Lê Quang Vinh siết chặt bàn
tay tôi mà nói rằng: “Tôi không trách chi ông cả, vì tôi hiểu ông chỉ làm bổn
phận của ông, và ông rất tử tế đối với tôi”. Tôi có hỏi Lê Quang Vinh có cần một
vị linh mục hay một vị tăng nào đến chứng kiến cho ông không, thì Lê Quang Vinh
trả lời rằng: “Tôi là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tôi không phải Công giáo, nếu
tiện thì xin cho một nhà sư...”
Đó là lời
nói sau cùng với tôi...
Sáng ngày
13-7-1956, dân chúng Cần Thơ nghe biết có xử hình Tướng Lê Quang Vinh, họ kéo đến
pháp trường (nghĩa trang Cần Thơ) khá đông. Nhưng lính cản lại không cho phép
vào. Chiếc máy chém đã được đao phủ thủ Đội Phước đem từ khám Chí Hòa tới từ
hôm trước, thiết trí sẵn tại pháp trường.
Chánh án
Huỳnh Hiệp Thành đi dự kiến, sau đó có cho biết cảm nghĩ rằng: “cả tuần sau ông
ăn ngủ không được, hình ảnh ghê gớm cứ lởn vởn trong đầu”. Ông cho biết rằng
thái độ của tử tội Lê Quang Vinh trước giờ lên máy chém, là thái độ bình tĩnh
không lộ vẻ sợ hãi chi.
Sau khi xử
trảm, xe quân đội đến chở thi hài tử tội đi chôn tại nghĩa trang đó. Về sau dân
chúng Cần Thơ đồn đãi rằng linh hồn ông Ba Cụt linh thiêng lắm, thường hiện về
nghĩa trang, nhiều người đi ngang đó lúc ban đêm đã nhìn thấy...
TÀI LIỆU
BỔ TÚC
Trong cuốn
sách nhan đề “Les Guerres du Viet-Nam” xuất bản năm 1985, tác giả cựu Trung tướng
Trần văn Đôn có viết tại trang 171, về vụ thi hài Lê Quang Vinh như sau: ...
‘’Một
trong những người đã hạ sát ông Diệm Nhu là Đại úy Nguyễn Văn Nhung, được thăng
cấp Thiếu tá sau đó. Nhung đã được chú ý về thành tích đặc biệt của hắn. Mỗi
ngày hắn chặt vài ba cái đầu Việt Minh xách về. Do đó mà Dương Văn Minh lấy
Nhung làm vệ sĩ, bởi vì ông ta lo sợ bị ám sát, cần một tay dữ dằn để hộ vệ.
“Trong
chiến dịch Dương Văn Minh tấn công Hòa Hảo, Tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh tự Ba Cụt
bị bắt, và bị xử tử hình. Sau khi đã chặt đầu ông rồi, thi hài được chôn tại chỗ
(nghĩa trang Cần Thơ). Nhưng sau Dương Văn Minh hạ lịnh cho Nguyễn Văn Nhung đến
đào mả, móc xác lên, và chặt làm nhiều khúc (phân tán cho biệt tích), làm như
thế phòng ngừa người của Ba Cụt đến lấy xác đem về an táng trong chiến khu của
họ... Nhung đúng là loại người thích hợp để thi hành các loại công tác ghê gớm
đó. Có người nói rằng mỗi khi Nhung giết người, đôi mắt hắn đỏ như máu. Có người
còn nói hắn thích ăn gan nạn nhân vừa bị hắn giết chết...”
Cũng trên
sách đó, tác giả Trần Văn Đôn nói về cái chết sau này của Nguyễn Văn Nhung: ...
‘’Nhung bị
bắt chiều ngày 30-1-1964 bởi Tướng Dương Văn Đức, một phe đảng phái của Tướng
Nguyễn Khánh. Việc bắt xảy ra trước mắt Nguyễn Ngọc Thơ và Dương Văn Minh,
nhưng Minh vốn người do dự, yếu hèn, không dám mở miệng nói lời nào can thiệp
cho người hộ vệ trung tín của mình từ 1954. Nhung bị trao cho đơn vị nhảy dù của
Tướng Nguyễn Chánh Thi, và sau đó bị tra tấn đến chết. Để che đậy, họ phao tin
rằng Nhung đã tự sát trong ngục bằng sợi dây cột giày...” (*)
CẢM NGHĨ
CỦA ÔNG BIỆN LÝ
Trả lời một
câu hỏi về thi hài Tướng Lê Quang Vinh sau khi xử hình, đã bị dấu biệt, gia
đình tìm kiếm không biết chôn nơi đâu, vậy thì vấn đề nêu lên là: Tòa án hay
chánh phủ có quyền thủ tiêu luôn cái xác chết, hay phải giao trả lại cho gia
đình tử tội? Ông Lâm Lễ Trinh trả lời như sau:
— Theo thủ
tục, khi một người đã bị xử tử hình rồi, tức là đã đền tội đối với xã hội rồi
(nếu quả thật có tội), điều nhân đạo tối thiểu là phải trả cái thi hài về cho
gia đình, dù rằng luật pháp không minh định như vậy. Tôi cũng lấy làm lạ tại
sao chánh phủ Ngô Đình Diệm không trả thi hài Lê Quang Vinh cho gia đình.
Ông Lâm Lễ
Trinh có minh định thêm hai điểm:
— Điểm thứ
nhất, nếu phê phán về mặt lịch sử và chánh trị, tôi cần phải xác nhận quan điểm
rằng Lê Quang Vinh là một người chiến sĩ chống Cộng. Điều này rõ ràng , không
ai có thể nghi ngờ.
— Điểm thứ
hai, Lê Quang Vinh có phạm những tội trạng người ta gán cho ông không, thì để
cho Trời Đất, Luật pháp và hồ sơ trả lời, và cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm có
trách nhiệm trong đó.
Về giả
thuyết nếu Lê Quang Vinh còn sống đến nay, thì ông có thể đóng góp những gì vào
công cuộc kháng chiến chống chế độ Cộng sản hiện giờ, ông Lâm Lễ Trinh cho rằng,
mặc dù sự thành công của kháng chiến tùy thuộc vào các yếu tố chính trị và nhân
tâm, ngoài yếu tố quân sự, ông cũng tin rằng nếu Tướng Lê Quang Vinh còn sống,
với nhiệt tâm chống Pháp chống Cộng trong quá khứ, thì ngày nay ông tất hiểu
hơn ai hết những nhu cầu chính trị, trong tình thế hiện tại, để trở nên một người
lãnh tụ hữu hiệu...
NHẬN XÉT
CỦA MỘT LUẬT GIA
Sau đây
là một số ý kiến của Luật sư Trần Sơn Hà, nguyên luật sư Tòa Thượng thẩm
Saigon. Ông Hà không tham dự phiên tòa, và chỉ nhận xét về những điểm trình bày
bởi ông Lâm Lễ Trinh.
1. Đây là
một vụ án hoàn toàn chính trị, và cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm đã sử dụng những
phương tiện pháp lý để đạt mục tiêu chính trị, là loại bỏ Thiếu tướng Lê Quang
Vinh.
2. Theo
thủ tục thông thường, một vụ án hình sự phải được khởi phát từ Bộ Tư pháp. Sau
khi Cảnh sát đến điều tra, biện lý cuộc truy tố can phạm theo quyết định của
ông Bộ trưởng Tư pháp là thẩm quyền cao hơn. Ngay từ khởi đầu vụ án Lê Quang
Vinh, mọi sự sắp đặt đều do ông Bộ trưởng Nội vụ kiêm Bộ trưởng phủ Tổng thống.
Sự kiện này nói lên rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xen lẫn vào nội bộ quyền
Tư pháp.
3. Việc Tổng
thống Diệm lưu ý đặc biệt đến vụ án, và cử một vị Biện lý tòa Saigon để thụ lý
một vụ án mà các tội phạm quy trách đều xảy ra tại Long Xuyên Châu Đốc, cho ta
nghĩ rằng đây là một vụ án đặc biệt đi ngoài các thủ tục tố tụng thông thường
đương thời. Thông thường, vị chánh án tòa Hòa Giải Rộng Quyền Châu Đốc hay Long
Xuyên hành xử ba nhiệm vụ biện lý, dự thẩm, và chánh án, là những người có thẩm
quyền thụ lý hồ sơ. Nhưng việc này lại được đặc biệt giao cho một vị Biện lý tòa
Saigon.
4. Khi xử
án đã không xử tại Long Xuyên hay Châu Đốc, mà lại xử tại Cần Thơ, và vị Chánh
thẩm Huỳnh Hiệp Thành cũng không phải là người có thẩm quyền địa hạt ở Châu Đốc
và Long Xuyên.
Không thấy
ông Lâm Lễ Trinh nói cho biết rằng trước đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có ban
hành một sắc luật thiết lập một tòa án đặc biệt để xử vụ án Lê Quang Vinh
không? Nếu có sắc luật đó, thì phải qui định các thủ tục đặc biệt ngay trong sắc
luật. Theo lời trình bày của ông Biện lý Lâm Lễ Trinh thì hình như Tổng thống
Ngô Đình Diệm không hề ban hành một sắc luật thành lập một tòa án đặc biệt, mà
sử dụng thủ tục thông thường hiện hành, như bắt đầu từ Sơ thẩm Đại hình, lên
Thượng thẩm, Phá án, hay Ân Xá. Như thế việc giao cho một Biện lý Saigon thụ lý
vụ án, và Chánh thẩm Cần Thơ xử án, đã đi ra ngoài thủ tục thông thường. (Hiểu
là một điều nghịch lý.)
5. Những
tội phạm quy trách cho Thiếu tướng Lê Quang Vinh không có bằng chứng trực tiếp
là các hành động do chính Thiếu tướng Vinh đã làm, hoặc do sự ra lịnh, thỏa thuận
hay được biết của ông, chỉ có những nguyên cáo nói rằng ông này ông kia đã làm
chuyện này chuyện nọ, rồi quy trách cho Thiếu tướng Lê Quang Vinh. Cho nên vấn
đề ngụy tạo bằng chứng, ngụy tạo lời khai thật rất dễ dàng khi có quyền lực. Dù
Thiếu tướng Lê Quang Vinh luôn luôn phủ nhận, nhưng tòa vẫn quy trách tội trạng
cho ông và vẫn xử bản án tối đa. Các bằng chứng buộc tội nêu ra cũng rất mơ hồ.
6. Về việc
Tòa Thượng thẩm bác bỏ đơn kháng cáo, cũng nên tìm hiểu lý do và nội dung, và
người có thể làm sáng tỏ vấn đề này là ông Chánh án Tòa Thượng thẩm Saigon Trịnh
Xuân Ngạn, sau là Phó Chủ tịch Tối cao Pháp viện Đệ nhị Cộng hòa, hiện sống tại
Pháp.
7. Về việc
Tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ đơn xin ân xá, phải hiểu đó là vì lý do chính
trị, vì nếu không phải lý do chính trị, Thiếu tướng Lê Quang Vinh đã được ân xá
rồi. Điều đó xác nhận đây là một vụ án chính trị, mà Tổng thống Diệm đã sử dụng
phương cách pháp lý để loại bỏ Thiếu tướng Lê Quang Vinh, cũng như sau đó đã
dùng pháp lý thông thường kết án Tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài) về các tội
“ăn cắp và trữ đồ gian” (để loại bỏ Tướng Phương).
8. Thi
hài Thiếu tướng Lê Quang Vinh sau khi thọ hình đã không được trả lại cho gia
đình, mà chôn ở đâu cũng không ai được biết. Theo nguyên tắc, người tử tội sau
khi đã thọ hình, tất cả tội phạm đều xóa bỏ, thì thi hài phải trả về cho gia
đình. Việc thủ tiêu xác chết là một quyết định vô nhân đạo, đồng thời chứng
minh tính cách chính trị sâu độc trong vụ án Lê Quang Vinh. Và như thế, phải nhắc
đến một câu mà cả nhơn loại đều biết là:
— KHI
CHÍNH TRỊ ĐÃ XEN VÀO TƯ PHÁP, THÌ CÔNG LÝ ĐỘI NÓN RA ĐI
Sau khi
đã trình bày quan điểm về pháp lý, Luật sư Trần Sơn Hà đã phát biểu một ý kiến
cuối cùng:
— Nếu lúc
đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đừng vì mục tiêu thống nhứt quân đội mà giết chết
Thiếu tướng Lê Quang Vinh, thì hôm nay trong công cuộc phục quốc, với hạ tầng
cơ sở của Dân Xã, với khả năng tinh thần chống Cộng can đảm và hăng say của Tướng
Lê Quang Vinh, nếu như ông còn sống, sẽ đóng một vai trò không nhỏ trong cuộc
kháng chiến tại quốc nội, để quang phục đất nước, đòi chủ quyền trong tay Cộng
sản lại cho dân tộc... (*)
GIÁ TRỊ LỜI
KHAI VÀ BẢN CHẤT TIÊN CÁO
Tướng Lê
Quang Vinh đã bị kết án tử hình về các tội trạng đại hình, theo đơn tố cáo của
một số dân trong hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Câu hỏi đặt ra: Giá trị những
đơn tố cáo và nguồn gốc đích thực của các tiên cáo.
Trong bối
cảnh chính trị mà người cầm đầu hệ thống quyền lực đã “nhứt định lấy đầu Lê
Quang Vinh” thì đương nhiên cả cái hệ thống quyền lực đó được điều khiển để tiến
tới mục tiêu.
Trong bối
cảnh ấy, thì tất cả các bánh xe đều phải quay theo một chiều được điều khiển,
các đơn tố cáo kia có giá trị gì? Sự ngụy tạo bằng chứng và ngụy tạo lời khai
thật rất dễ dàng khi có quyền lực (lời luật gia Trần Sơn Hà). Tiên cáo ngụy tạo,
lời khai ngụy tạo, bằng chứng ngụy tạo, tất cả đều là phương tiện tốt để đạt cứu
cánh, và trong chiều hướng đó làm sao Tướng Lê Quang Vinh vô tội và thoát chết
được?
Một yếu tố
nữa là BẢN CHẤT các tiên cáo. Họ là ai?
Theo hồ
sơ, họ là dân. Nhưng dân nào? Chắc chắn không phải là người Hòa Hảo đích thực,
vì không một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nào làm như thế. Trong vùng chiến khu tại
Long Xuyên Châu Đốc, người dân nào có kiên trì sống tại các nơi biên khu tranh
tối tranh sáng, tất nhiên phải có bản chất đặc biệt của họ. Bởi vì những người
chống Cộng thì đã đứng vào phòng tuyến chống Cộng rồi, những người có tiền có của
thì đã bỏ ruộng đồng mà ra đô thị. Những người còn ở lại biên khu, tất phải
theo chỉ thị của một quyền lực địa phương. Vậy quyền lực nào đây? Cố nhiên nếu
quyền lực đó là quyền lực Cộng sản, thì họ cũng chẳng dại gì đưa cán bộ nằm
vùng ra đứng tiên cáo, nhưng là dân thường của họ đã được chỉ dẫn học tập. Nếu
quyền lực đây là quyền lực của chính phủ Ngô Đình Diệm, thì trong hoàn cảnh
1955-1956, các lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo đã bị đánh dẹp, thì các giới
chức công an quân đội địa phương không có khó khăn nào trong việc tìm ra những
tiên cáo hữu ích và thích nghi theo nhu cầu để hoàn thành nhiệm vụ kết án và lấy
đầu Tướng Lê Quang Vinh.
Chính ông
Biện lý Lâm Lễ Trinh cũng nhìn nhận rằng “trong thời kỳ tranh tối tranh sáng
đó, lại có sự xâm chiếm lẫn lộn của Cộng sản, thì các vụ giết người, xâm phạm
tài sản thường dễ xảy ra, rất phức tạp, khó biết rõ xảy ra thế nào, do ai gây
ra?...” Cho nên có thể nói rằng tiên cáo trong vụ án này, một phần là của Cộng
sản, một phần là của phía chánh phủ Ngô Đình Diệm đưa ra. Vì Lê Quang Vinh đã
phá nát hậu bối chiến khu của Cộng sản, làm tê liệt hệ thống giao liên giữa chiến
khu Đồng Tháp và chiến khu U Minh cho nên Cộng sản phải giết Lê Quang Vinh. Cộng
sản muốn giết, chính phủ cũng muốn giết Lê Quang Vinh, nói rộng ra, cái xã hội
quyền lực lúc đó muốn giết Lê Quang Vinh.
TỘI TRẠNG
QUY TRÁCH
Một điểm
đặc biệt khác là thời gian quá ngắn từ khi Lê Quang Vinh bị bắt tại Chắc-cà-đao
đến khi bị hành quyết tại Cần Thơ, chỉ có vỏn vẹn ba tháng (Ông bị bắt 13-4 và
bị hành hình 13-7-1956). Nếu ta theo dõi các vụ án quan trọng, nhứt là án tử
hình tại các nước tự do dân chủ, ta hẳn thấy rằng hệ thống tòa án làm việc rất
cẩn trọng, vì coi mạng người là vô cùng quan hệ, không thể giết bừa bãi cẩu thả,
và thời gian kết tội cũng như trước khi hành hình đã kéo dài hàng năm, nhiều
năm, cho sự suy nghĩ, cân nhắc được kỹ lưỡng đầy đủ trước khi bắt tử tội thọ
hình.
Vụ án Lê
Quang Vinh chỉ có 90 ngày, có lẽ còn ngắn hơn nếu kể từ ngày khởi đầu thủ tục tố
bụng. Rõ ràng là một sự cố ý chính trị, một thái độ vội vã, cố tình đạt cho được
mục tiêu thật mau lẹ, giống như một kẻ đã có ý định muốn bóp chết địch thủ ngay
lập tức, để dứt khoát cho xong.
TẠI SAO
PHẢI CHẶT ĐẦU MÀ KHÔNG XỬ BẮN?
Trong các
hình thức xử tử: treo cổ, ghế điện, xử bắn, hơi độc, chặt đầu, hoặc tam ban triều
điển (thuốc độc, treo cổ, tự đâm) chỉ có hình thức chặt đầu là dã man nhứt.
Thời cách
mạng Pháp 1789 đã khai sinh cái guillotine, hay gần đây hơn là sự tàn ác tột độ
của thực dân Pháp đã chặt đầu lãnh tụ kháng chiến Nguyễn Trung Trực bằng dao,
đã đưa 13 chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng lên máy chém tại Yên Bái 1930.
Cũng tại
Cần Thơ, mùa thu 1945, ba chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo tiền phong đã bị Cộng sản
lên án tử hình. Họ là ba chiến sĩ đầu tiên của phong trào chống Cộng, đã chết
vì chống độc tài và đòi tự do dân chủ.
Bánh xe lịch
sử mới bắt đầu quay vào chu kỳ cách mạng 1945, thì ba chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo
Nguyễn Xuân Thiếp, Trần Văn Hoành, Huỳnh Thạnh Mậu đã hy sinh tại pháp trường Cần
Thơ, rồi éo le thay, khi bánh xe lịch sử bắt đầu quay vào chu kỳ độc lập 1955,
thì một chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo khác đã chiến đấu suốt đời từ 1945 đến 1955
chống Cộng sản, chống Thực dân, lại bị đem ra pháp trường Cần Thơ chặt đầu.
TẠI SAO
PHẢI THỦ TIÊU THI HÀI?
Khi đã chết
rồi, thi thể Tướng Lê Quang Vinh còn bị hành hạ, chặt ra nhiều khúc cho tan
nát, cho tuyệt diệt. Hành động này có làm cho phía chiến thắng được thêm hả hê
thỏa mãn trong niềm kiêu hãnh tự hào chút nào không? Đối với phương Đông, đây
là một điều bất nhân vô đạo. Phương Đông có truyền thống đạo học, kẻ không theo
Phật cũng biết Nho, không ai nỡ đối xử tàn tệ với người đã chết như thế. Việc
báo oán cũng được Nho giáo chia ra làm ba tầm mức: Dĩ đức báo oán, Dĩ trực báo
oán, và Dĩ oán báo oán. Hành động tàn ác này còn vô luân hơn cả hình thức lấy
oán báo oán kia.
Nghĩa tử
là nghĩa tận, cớ sao không thể trả thi hài cho gia đình nạn nhân được chôn cất
dưới nấm mồ gia đình, để cha mẹ vợ con còn có cơ hội thắp nén nhang, cúng cành
hoa, hầu nhớ lại những ân tình ruột thịt, tuy ngàn thu đã chia cách âm dương
đôi ngã? Trong truyền thống Việt Nam, chết mất xác là một điều đau đớn vô cùng
cho thân nhân còn sống, thế mà con người lại có thể nhẫn tâm như thế sao? Những
kẻ có trách nhiệm có còn giữ lại chút nào luân lý và văn hóa dân tộc chăng?
TÂM TƯ TỬ
TÙ LÊ QUANG VINH
Cũng nhân
chứng Lâm Lễ Trinh, đã có một cảm xúc rất “người” khi bước vào phòng tử tội, thấy
Tướng Lê Quang Vinh tự tay vẽ trên tường tấm bản đồ Việt Nam trọn vẹn từ Nam ra
Bắc, với hàng chữ lớn phía dưới “VIỆT NAM MUÔN NĂM”. Con người chiến sĩ dọc
ngang Lê Quang Vinh bây giờ là một tử tội sắp thọ hình, đã bộc lộ tâm tư đích
thực tha thiết của riêng mình và nguyện vọng cao cả nhứt của đời mình, là tranh
đấu cho một nước Việt Nam thống nhứt độc lập tự do. Ông đã kéo quân vào bưng biền
lần sau cùng vào cuối 1954 để lên tiếng phản kháng sự chia đôi đất nước bởi hiệp
định Giơ Neo. Và bây giờ, trong phòng tử tội, ông đã tự mình vẽ lên tường để
riêng mình chiêm bái, tấm bản đồ của tổ quốc thân yêu thống nhứt Bắc Nam không
lằn chia cắt.
Trong bốn
bức tường khám đường Cần Thơ, chiến sĩ Lê Quang Vinh hẳn đã nức nở gào thét một
mình trước hình ảnh tổ quốc, và qua hàng chữ lớn VIỆT NAM MUÔN NĂM, khi biết rằng
mai này, ông sẽ thọ hình từ giã cuộc đời, một cuộc đời đấu tranh gian khổ, để tổ
quốc Việt Nam Muôn Năm. Tổ quốc bất diệt, nhưng chiến sĩ phải chết. Như Nguyễn
Trung Trực, như Nguyễn Thái Học. Chỉ khác là Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thái Học
bị xâm lược ngoại chủng giết, còn Lê Quang Vinh bị người quốc gia cùng phòng
tuyến hành hình.
Con Người
Lê Quang Vinh dưới lăng kính phân tích xã hội
Nhìn vào
nguồn gốc xã hội của con người Lê Quang Vinh, ta thấy đây là một người nông
thôn rặt ròng. Các vị lãnh tụ quân sự khác của Phật Giáo Hoà Hảo không xuất
thân nông dân rặt ròng như Lê Quang Vinh. Ông Trần Văn Soái sinh hoạt trong nghề
xe đò chuyển vận, ông Lâm Thành Nguyên trong ngành cơ khí. Ông Nguyễn Giác Ngộ
trước là một quản cơ trong tổ chức quân sự. Những người này thường sinh hoạt
ngoài khu vực nông thôn, có cuộc sống đô thị, lại ở một thế hệ lớn tuổi hơn,
cho nên khi trở thành lãnh tụ quân sự, đã có khuynh hướng hoạt động và nếp sống
khác nới người nông dân Lê Quang Vinh.
Trái lại,
người thanh niên Lê Quang Vinh (1925-1956) trở thành lãnh tụ quân sự của một lực
lượng võ trang khoảng 5000 người (1954), chưa đầy 30 tuổi, vẫn còn trong dòng
máu cái bản chất nông dân, không dễ dàng thỏa hiệp hay thay đổi lập trường,
không xa rời đồng đội vì cùng là nông dân với nhau, không tự cao tự đại, không
tự mãn để hưởng thụ, không sợ chết sợ khổ. Lê Quang Vinh là con người có óc cầu
tiến, muốn làm những việc lớn theo ước vọng của mình khi thụ nhận ý thức cách mạng
trong giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo. Cho nên Lê Quang Vinh không có tài sản, nhà cửa,
cơ sở kinh doanh hay trương mục ngân hàng nào. Và cũng vì không có tài sản
riêng mà Lê Quang Vinh không bị ràng buộc, sống tự tại như con chim trời, có thể
một sớm một chiều kéo quân trở về bưng biền, không bịn rịn ngần ngại chi cả.
Mục đích
của ông là thêm võ khí, không phải thêm tài sản của cải. Năm lần vào bưng và trở
ra hợp tác, ông đã tiến từ vị trí chỉ huy đơn vị 100 người lên tư lịnh một đơn
vị 5.000 người. Nhưng có nhiều võ khí để làm gì? Để trở thành một lãnh chúa tiểu
vương, điều này không phải chí hướng Lê Quang Vinh. Người thanh niên nông dân ấy
đã giác ngộ sứ mạng công dân thời loạn, có cơ hội trở thành một anh hùng, nhưng
lại không đủ kiến thức để có thể đối phó với mưu lược của những thành phần xuất
thân từ giai cấp ưu đãi trong xã hội từ khi thực dân Pháp mới đến xâm chiếm Việt
Nam. Sự thua kém kiến thức đã làm cho con người yêu nước ấy mang cái “loạn tướng”
và bị hành quyết năm 1956, lúc ấy mới 31 tuổi.
Có thể lấy
Lê Quang Vinh làm con người điển hình cho chiến sĩ Phật Giáo Hòa Hảo, và lấy
trường hợp xử tử Lê Quang Vinh như điển hình của tôn giáo Phật Giáo Hòa Hảo
trong xã hội Việt Nam. Tuy có số quần chúng đông đảo, nhưng Phật Giáo Hòa Hảo vẫn
bị uy hiếp và chịu thiệt thòi. Giai cấp ưu đãi trong xã hội có nhiều cơ hội và
phương tiện để giành lấy ưu thế trong sinh hoạt quốc gia, trong khi người chiến
sĩ nông dân Phật Giáo Hòa Hảo, hình ảnh của giai cấp bị bạc đãi trong xã hội từ
một trăm năm qua, bây giờ vẫn tiếp tục bị thiệt thòi.
Lê Quang
Vinh muốn “ngoi lên” nhưng khi anh ra khỏi môi trường nông thôn và cuộc chiến
bưng biền, anh bị lạc lỏng vào môi trường mới hoàn toàn xa lạ, không thích hợp
với anh, mà chính anh cũng không có khả năng tự thích nghi với môi trường mới.
Cho nên anh giống như con cá đã ra khỏi mặt nước, không thể bơi lội được nữa,
mà phải “chết cạn” trong môi trường mới.
ẢNH HƯỞNG
LÂU DÀI CỦA CHÁNH SÁCH THUỘC ĐỊA
Chế độ
thuộc địa đã tạo những thay đổi lớn lao trong xã hội miền Nam Việt Nam, có thể
tóm lược như sau:
— Hoán
chuyển nền kinh tế nông nghiệp cổ truyền thành một nền kinh tế theo mô thức tư
bản.
— Làm cho
xã hội Việt Nam phân hóa thành hai thành phần khác biệt: một bên là thiểu số được
ưu đãi, một bên là đa số bị bạc đãi.
— Tạo ra
hai nếp sống cách biệt giữa đô thị và nông thôn.
Riêng tại
khu vực nông thôn, Pháp đã áp dụng chánh sách phân phối ruộng đất như một lợi
khí chánh trị, tạo ra tình trạng phân hóa xã hội với hai thành phần điền chủ và
tá điền.
Một bên
là thành phần ưu đãi nắm trong tay phương tiện sản xuất, chính yếu là đất đai
và tín dụng; một bên là giới đại đa số bị bạc đãi, tức giới nông dân không có
ruộng cày, phải mướn lại đất của điền chủ, và sống cuộc đời nghèo khổ cùng cực
của tá điền.
Tình huống
đó làm cho cái hố cách biệt giữa hai giai cấp chủ điền và tá điền, càng ngày
càng sâu rộng, một sự cách biệt không những về lợi tức giữa giàu và nghèo, mà
còn giữa đời sống đô thị với đời sống nông thôn, giữa hai nếp sống tân tiến và
cổ truyền. Cũng không chỉ là sự cách biệt nhất thời, mà còn gây ảnh hưởng rất
sâu rộng, lâu dài về sau trong sinh hoạt chính trị, xã hội và kinh tế, văn hóa
của xã hội nói chung.
Theo khoa
học kinh tế, một trong những điều kiện phát triển là tư bản, tức vốn. Khoa học
xã hội nêu một nguyên lý phát triển: phải cung cấp cho mọi người trong xã hội
những cơ hội và phương tiện phát triển cần thiết, trước khi nói đến bình đẳng
xã hội. Tổ chức xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc đã đi ngược lại nguyên lý
này. Cơ hội và phương tiện phát triển được dành riêng cho một thiểu số, trong
khi đại đa số là giới nông dân yếu kém trong xã hội không được thừa hưởng những
cơ hội và phương tiện phát triển, nên không thể thăng tiến được, mà cứ triền
miên trì trệ trong cảnh sống tối tăm, gần như vô vọng, không lối thoát.
Thành phần
giàu mạnh tất nhiên chiếm ưu thế, thành phần yếu kém phải thất thế, và cứ thế từ
đời này lưu truyền sang đời kia. Trên đây, đã nói về mặt lợi tức. Sau đây, đề cập
ảnh hưởng về mặt giáo dục.
Trong các
quốc gia tiến bộ, học vấn được cung cấp miễn phí và cưỡng bách cho con người đến
một mức độ nào đó. Tại Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu, mức độ cưỡng bách và miễn
phí giáo dục được định ở mức cuối của chương trình trung học 12 năm. Đại học mở
rộng cửa cho mọi người, với các biện pháp giúp đỡ tài chánh và tín dụng cho
sinh viên nghèo cũng có thể theo học và đỗ đạt. Đó là quan niệm cung cấp học vấn
như một phương tiện phát triển đồng đều cho mọi người trong xã hội.
Nếu quan
niệm này là đúng, và phát xuất từ kinh nghiệm lâu đời của các nền văn minh, thì
thực trạng xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc nhứt định phải gọi là tình huống
nghịch lý và bất công. Không những chỉ tác hại nhứt thời mà còn di hại hàng
trăm năm về sau.
Trong khi
lớp con em của giới nông dân nghèo khổ chỉ có thể đến học ở ngôi trường làng, để
đạt khả năng đọc viết quốc ngữ, thì con em của giới nghiệp chủ giàu mạnh đang
đi học tại các đại học đường hay xuất dương du học ngoại quốc. Khi con em nông
dân bỏ sách vở ở lớp tuổi còn thơ ngây (khoảng 10 tuổi là học xong chương trình
trường làng), rồi bước thẳng vào cuộc đời để giúp cha mẹ đi cày cuốc hay chăn
trâu bắt cá ngoài đồng, thì con em giới nghiệp chủ được tiếp tục học để tăng
gia kiến thức, và trở nên những người “có văn hóa cao”, xuất thân từ các đại học,
và đương nhiên chiếm được các vị thế ưu thế trong xã hội. Họ là những bác sĩ, kỹ
sư, bác học, luật sư, giáo sư... nói chung là giai cấp trí thức tân học, sau
này trở nên cấp lãnh đạo xã hội.
Điều này
đã hiển nhiên xảy ra, cấp lãnh đạo tại Việt Nam xuất hiện từ 1945 về sau, dù
trong guồng máy chính quyền Cộng sản ở miền Bắc, cũng hầu hết là con cháu các
gia đình có ưu thế trong xã hội kể từ thời Pháp thuộc. Những thế hệ sau cùng gần
giống như vậy, mặc dù cũng có một số ngoi lên từ giới nông dân nhưng đại đa số
các cấp chỉ huy quân sự và hành chánh trong guồng máy chính quyền, từ thời Pháp
thuộc đến thời Bảo Đại và các chế độ Cộng Hòa Miền Nam, là hậu duệ của thành phần
được ưu đãi trước kia.
Một số
khác xuất thân từ thành phần tiểu tư sản thành thị, nhưng chỉ có rất ít thuộc
thành phần nông dân.
Nông dân
được xem là thành phần đa số và căn bản của xã hội Việt Nam. Nhưng trong thực tế,
quyền lực không nằm tại nông thôn, mà nằm tại đô thị. Đô thị đóng vài trò lãnh
đạo nông thôn, quyết định vận mạng đất nước.
Tình trạng
xã hội mô tả trên đây đã tiếp diễn, và vẫn còn đang tiếp diễn, vẽ ra cho nhà
phân tích xã hội môt bức tranh khá bi hài. Đó là cảnh thi đua giữa hai người Việt
Nam. Một người ốm yếu bịnh tật đang chạy bộ trong đồng ruộng sình lầy bằng đôi
chân gầy guộc, để thi đua với một người Việt Nam khác, mạnh khỏe thông minh, chễm
chệ lái xe hơi trên đường tráng nhựa bằng phẳng.
Cuộc thi
đua này có thể gọi bằng danh từ mỹ miều là “tự do cạnh tranh” nhưng trong thực tế
xã hội Việt Nam, cuộc thi đua đó chính là thảm trạng lâu dài của dân tộc Việt
Nam, bởi vì cuộc thi đua chênh lệch và phi lý này đã tiếp diễn từ thập niên 30
đến bây giờ, trước đám khán giả, mà phần đông có khuynh hướng chê bai khinh miệt
con người thất thế ốm yếu, và tâng bốc khen ngợi ông nhà giàu mạnh khỏe thông
minh kia. Đó cũng lại là một thực trạng tâm lý con người trong cái xã hội đô thị
ở Việt Nam, đánh giá nhân loại trên các tiêu chuẩn vật chất bề ngoài. Thực trạng
tâm lý ấy, cũng vẫn là sản phẩm của chế độ thuộc địa Pháp.
Hai tay
đua nói trên có thể được đặt tên là Lê Quang Vinh và Nguyễn Ngọc Thơ, để dễ
dàng diễn tả một thực trạng sống, được nhiều người biết đến.
Ông Nguyễn
Ngọc Thơ là con của ông Huyện Chơn tại Long Xuyên. Ông Huyện là một trong những
người nhìn xa thấy rộng, nằm trong thành phần giai cấp được người Pháp ưu đãi
dưới thời Pháp thuộc, và ông có được những điều kiện phát triển thăng tiến xã hội,
đạt địa vị xã hội và tài sản cao hơn nhiều người khác. Kết quả, ông trở thành một
điền chủ giàu có, lại thêm chức quyền ông Huyện. Con của ông là Nguyễn Ngọc Thơ
bước thẳng vào quan trường, với địa vị đặc biệt là bí thơ của Toàn quyền
Decoux. Sau đó ông được Pháp bổ nhiệm vào chức vụ quan trường, rồi tỉnh trưởng
tại Long Xuyên, tức quê quán của ông. Lúc đó ông là đốc phủ sứ, ngạch cao nhứt
của hệ thống công chức bản xứ. Trong phong trào cách mạng chống Pháp giành độc
lập, ông Thơ vẫn là một quan lại của Pháp, suốt từ buổi đầu của nấc thang quan
trường quyền lực, ông liên tục phục vụ bộ máy cai trị Pháp.
Khi ông
Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh năm 1954, ông được ông Diệm tin cậy, giao cho
chức vụ Đặc sứ Việt Nam tại Đông Kinh (Nhựt Bổn). Sau đó ông được ông Diệm xem
như một cố vấn về vấn đề Miền Nam. Khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc trưởng
Bảo Đại thiết lập chế độ Đệ nhứt Cộng Hòa, ông Thơ được đặt vào chức vụ Phó Tổng
thống, tuy rằng có qua một cuộc bầu cử, nhưng ai cũng biết thực chất cuộc bầu cử
đó là không dân chủ như ở các chế độ dân chủ chân chánh. Thế là, từ một công chức
phục vụ bộ máy cai trị của thực dân Pháp, bây giờ ông Thơ nghiễm nhiên trở
thành một người lãnh đạo của chế độ mới, của quốc gia Việt Nam độc lập. Cũng phải
thêm rằng sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ do cuộc đảo chánh 1-11-1963, ông
Thơ lại được bạn bè hay tay chân cũ đưa vào chức vụ Thủ tướng của chánh phủ
cách mạng, hiện tượng này được diễn giải như một sự cấu kết giữa những người
cùng nhóm quyền lợi với nhau, thuộc giai cấp ưu đãi trong xã hội Việt Nam dưới
tời Pháp thuộc và chế độ Đệ nhứt Cộng Hòa.
Đối chiếu
lại trường hợp ông Nguyễn Ngọc Thơ, là một trường hợp đặc biệt khác, cũng được
rất nhiều người biết đến. Đó là con người Lê Quang Vinh tự Ba Cụt, một nông dân
sau trở thành một “loạn tướng”, rồi bị hành quyết.
Người
thanh niên Lê Quang Vinh (sanh năm 1925, tại vùng Bàng-Tăng, tỉnh Long Xuyên)
hàng ngày lam lũ với ruộng đất, xử dụng cây phảng nhiều hơn cây viết. Anh phát
cỏ, cày bừa, gieo lúa, gặt hái... Nhà không có tiền, cho nên anh không được đi
học xa, vốn nhà trường vỏn vẹn có mấy năm tiểu học trường làng. Không có định
chế tín dụng nào cho thân sinh của anh vay tiền để phát triển sản nghiệp, cũng
không có nấc thang nào cho anh bước vào quan trường. Anh chỉ có thể là một người
nông dân chân lấm tay bùn suốt đời, nếu không có các biến cố lịch sử xảy ra ở
thập niên 1940.
Biến cố
thứ nhất là sự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo năm 1939. Người nông dân ấy quy y
nhập đạo, và hăng say theo Đạo. Anh hăng say tập luyện võ nghệ để chuẩn bị chống
thực dân Pháp, cho nên anh bị thân sinh quở mắng nặng nề, đến đổi anh phải dùng
cây phảng phát cỏ chặt đứt ngón tay, mà thề rằng “nếu ngón tay này mọc lại, sẽ
về làm ruộng cho vui lòng tía.”
Người
thanh niên ấy đã không có cơ hội và điều kiện thăng tiến lên nấc thang xã hội,
nhưng đã đi thẳng vào con đường đấu tranh cách mạng, khởi đầu là chống thực dân
Pháp, và sau đó là chống Cộng sản, chống luôn cả chế độ Ngô Đình Diệm.
Bỏ cày cuốc
để cầm võ khí, bỏ ruộng rẫy để ra chiến trường, anh đã sống một cuộc sống thường
xuyên nguy hiểm gian truân trong bưng biền kháng chiến, song hành với cuộc sống
yên lành sung túc quan quyền của nhân vật Nguyễn Ngọc Thơ ngoài đô thị dưới sự
bảo vệ của Pháp.
Đây là
hai thái cực đối nghịch rõ rệt. Anh đã leo từ nấc thang thấp nhứt của người chiến
sĩ, lên đến nấc thang khá cao của một người lãnh đạo quân sự (cấp tướng), do
tinh thần chiến đấu can đảm và uy tín cá nhân mà anh đã tự tạo cho mình đối với
binh sĩ dưới quyền. Chẳng may cho anh, anh bị ông Nguyễn Ngọc Thơ lừa gạt vào một
cuộc thương thuyết, để lọt lưới của chế độ Ngô Đình Diệm. Anh bị bắt, bị giam cầm,
bị đưa ra tòa xử như một keœ phiến loạn, và sau hết, bị hành quyết tại Cần Thơ
ngày 13-7-1956.
Hai cuộc
đời của hai nhân vật Nguyễn Ngọc Thơ và Lê Quang Vinh, cùng sanh quán tỉnh Long
Xuyên, nhưng phát xuất từ hai giai cấp xã hội khác nhau, rồi cùng trải qua những
biến cố sôi động của lịch sử Việt Nam từ đầu thập niên 1940. Trong biến cố lịch
sử đó, mỗi người đi một con đường: một bên theo Pháp, một bên chống Pháp, để rồi
sau hết, người theo Pháp lại ngồi trên ghế cao hàng nhì của quyền lực lãnh đạo
quốc gia. Ngược lại, người chống Pháp ngồi ghế tử tội, và bị chém đầu. Trong tiến
trình đưa Lê Quang Vinh đến pháp trường, ông Nguyễn Ngọc Thơ là người đóng vai
trò trọng yếu.
Câu chuyện
“hai cuộc đời song hành” trên đây thể hiện tình trạng xã hội Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc với hậu quả lâu dài của chánh sách cai trị mà thực dân Pháp áp dụng.
Giai cấp
được Pháp ưu đãi điển hình là con người Nguyễn Ngọc Thơ, tuy là thiểu số trong
xã hội, nhưng có điều kiện giàu mạnh và nắm lấy quyền lực lãnh đạo. Trong khi
đó, giai cấp đại đa số bị bạc đãi thiệt thòi, điển hình là con người Lê Quang
Vinh chỉ có thể thoát ra khỏi hoàn cảnh bất công và vô vọng qua đại biến cố lịch
sử, là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nhưng rốt cuộc, trên con đường cách mạng,
Lê Quang Vinh bị đè xuống, bị đàn áp vì quyền lực chưa được thực sự chuyển từ
chánh quyền thực dân qua quốc dân Việt Nam, tức quần chúng cách mạng, mà lại được
chuyển vào tay một giai cấp được ưu đãi bởi chính thực dân tạo nên.
Người
nông dân Lê Quang Vinh có cơ hội biến cố cách mạng mà thay đổi số phận của mình
trong sự thay đổi số phận chung của dân tộc, nhưng vì biến cố cách mạng đó lại
bị khống chế bởi giai cấp thiểu số nhờ những ưu thế sẵn có từ trước, mà nắm lấy
quyền lực lãnh đạo xã hội, cho nên rốt cuộc thì người nông dân Lê Quang Vinh chỉ
có thể trở thành một “loạn tướng”, mọi công lao chiến đấu bị phủ nhận, ngay cả
lòng ái quốc cũng bị phủ nhận bởi quyền lực đương quyền, để rồi sau hết người
nông dân Lê Quang Vinh vẫn là nạn nhân trong một giai đoạn giao thời được cai
trị bởi quyền lực phát sanh từ giai đoạn tiền cách mạng.
Cho nên
có thể nói rằng cái chết của Tướng Lê Quang Vinh năm 1956, nhìn theo lăng kính
phân tích xã hội, vẫn là hậu quả của chánh sách xã hội bất công của thực dân
Pháp. Cũng vì thế mà Huỳnh Giáo Chủ, ngay năm đầu lập Đạo, đã dùng tinh thần đạo
đức mà khuyên nhủ giới điền chủ nên thay đổi thái độ đối xử với giới tá điền, mở
lòng từ thiện mà cứu giúp nông dân nghèo khổ. Sau này, 1946, Huỳnh Giáo chủ lấy
sáng kiến thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng với mục đích thực hiện một xã
hội công bình nhân đạo. Nói cách khác, sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vẫn
còn nhu cầu giải phóng con người Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét